Sunday, 22nd December, 2024 18:02

BÁC BỎ NHỮNG LUẬN ĐIỆU PHẢN ĐỘNG

Nhân kỷ niệm 105 năm Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công, trên các trang mạng xã hội của nhóm những người nhân danh dân chủ, đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam và các facebook cá nhân của những người “theo đóm”, “theo bả” của các thế lực thù địch đã đăng tải một số bài viết, với những luận điệu phản động, xuyên tạc sự thật. Trong đó, họ không chỉ phủ nhận ý nghĩa và giá trị của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 mà còn bẻ cong sự thật khi xuyên tạc việc Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, chọn con đường cứu nước theo quỹ đạo cách mạng vô sản là sai lầm; cho rằng Việt Nam kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dẫn đến đất nước mất “bao năm nội chiến” và “chậm phát triển như ngày nay”. ..

Trước những thông tin sai lệch, dối trá, bôi đen sự thật nhằm xúc phạm Chủ tịch Hồ Chí Minh, chống phá Đảng và chế độ này, cần phải khẳng định chắc chắn rằng:

CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA MỞ ĐẦU MỘT THỜI ĐẠI MỚI TRONG LỊCH SỬ THẾ GIỚI

Càng có đội lùi của thời gian, chúng ta càng khẳng định rằng: Ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại của cuộc Cách mạng Tháng Mười vẫn vẹn nguyên, trường tồn. 105 năm đã trôi qua (1917-2022), song sự kiện vĩ đại, có tiếng vang và tầm ảnh hưởng sâu sắc, làm rung chuyển cả thế giới cũng như việc cuộc cách mạng vĩ đại ấy đã mở ra con đường đưa các dân tộc thuộc địa, bị áp bức vùng lên đấu tranh giành độc lập, tự do, xây dựng cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc; trong đó có Việt Nam ở Đông Nam châu Á là không thể phủ nhận! Đó chính là một cuộc Cách mạng mở đường, đúng như V.I Lênin đã khẳng định: “Chúng ta có quyền tự hào và quả thật chúng ta tự hào là đã có cái hân hạnh được bắt đầu xây dựng nhà nước Xôviết và do đó, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thế giới, thời đại thống trị của một giai cấp mới, giai cấp bị áp bức trong tất cả các nước tư bản và ở khắp nơi đang tiến tới một cuộc đời mới, tới chỗ chiến thắng giai cấp tư sản, tới chỗ thành lập chuyên chính vô sản, tới chỗ giải phóng nhân loại khỏi ách tư bản, khỏi những cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa”(1).

Với Việt Nam, vào thập niên 1920, khi Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đang bôn ba trên hành trình tìm đường cứu nước, trải nghiệm và khảo sát các chế độ chính trị xã hội ở nhiều quốc gia, nhiều châu lục, thì Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công. Không lâu sau, Quốc tế thứ III – Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin sáng lập ngày 2/3/1919 tại Mátxcơva (Liên Xô) đã “bắt đầu thực hiện khẩu hiệu vĩ đại nhất của Mác, khẩu hiệu tổng kết thực tiễn trong một thế kỷ của chủ nghĩa xã hội và của phong trào công nhân, khẩu hiệu biểu hiện bằng khái niệm: chuyên chính của giai cấp vô sản” . Ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười Nga và “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin đã giúp Người tìm thấy con đường để giải phóng dân tộc mình, nhân dân mình khỏi kiếp lầm than. Và thế là, như một sự lựa chọn của lịch sử, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp (12/1920), Nguyễn Ái Quốc đã không chỉ lựa chọn, bỏ phiếu cho Quốc tế thứ III, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên – một trong những thành viên tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, mà còn đồng thời lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam theo quỹ đạo của cách mạng vô sản.

Một hành trình hoạt động cách mạng về lý luận và thực tiễn, hình thành con đường cách mạng Việt Nam bắt đầu. Và cũng từ sự lựa chọn có ý nghĩa lịch sử vô cùng quan trọng này, sau đó, trong quá trình chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự ra đời của một chính đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định trong tác phẩm Đường Cách mệnh rằng: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”(2); “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”(3) và “bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(4)…

Khi những điều kiện cần và đủ đã chín muồi, Người đã không chỉ vận dụng những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để sáng lập một Đảng Mácxít – Lêninnít cách mạng chân chính; đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán làm nòng cốt cho phong trào cách mạng; cổ vũ, động viên và quy tụ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong các hình thức Mặt trận dân tộc thống nhất; sáng lập lực lượng vũ trang cách mạng; xây dựng căn cứ địa cách mạng… mà còn lãnh đạo nhân dân kiên trì đấu tranh cách mạng, đón và chớp đúng thời cơ để vùng lên giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lật đổ ách thống trị của Nhật, Pháp và giành chính quyền về tay nhân dân. Với Tuyên ngôn độc lập đọc ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á.

CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM DO CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH, ĐẢNG TA VÀ NHÂN DÂN LỰA CHỌN LÀ ĐÚNG ĐẮN

Lịch sử dân tộc Việt Nam và lịch sử thế giới đương đại ghi nhận rằng: Không có sự lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn theo những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 của Nguyễn Ái Quốc; không có việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam những năm cuối thập niên 1920 thì tất yếu cũng không có một Đảng cách mạng được xây dựng và hoạt động theo nguyên tắc một Đảng Mácxít – Lêninnít để tập hợp, quy tụ, lãnh đạo các tầng lớp nhân dân đấu tranh và giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Và nếu không có thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân Việt Nam vào mùa Thu năm 1945 thì cũng không có một cuộc đổi đời lịch sử của những người nô lệ trở thành chủ nhân một nước Việt Nam độc lập, tự do trong thế kỷ XX. Bởi rằng, thắng lợi có ý nghĩa thời đại đó đã đưa tên đất nước Việt Nam trở lại bản đồ chính trị thế giới; đồng thời đưa nhân dân Việt Nam trở thành những người có quyền tự quyết định con đường phát triển của dân tộc mình và thụ hưởng những giá trị đích thực của độc lập, tự do, của quyền con người mà trước đó “họ chưa bao giờ có được”…

Thực tế cho thấy rằng, một ngày sau khi tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời chủ trì cuộc họp để giải quyết những công việc cấp bách. Giữa bộn bề công việc và ở trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, 6 nhiệm vụ cấp bách mà Người cùng Chính phủ quyết liệt triển khai thực hiện đều không ngoài những quyết sách nhằm chống thù trong, giặc ngoài, để bảo vệ nền độc lập vừa giành được và bắt đầu kiến thiết đất nước. Trong những ngày tháng cam go đó, không thể không nhắc đến những nhiệm vụ chính trị quan trọng được triển khai thành công như: Xúc tiến tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội theo nguyên tắc bình đẳng, phổ thông, bỏ phiếu kín; soạn thảo và sớm thông qua tại Quốc hội khóa I để Việt Nam có một bản Hiến pháp dân chủ, công bình của các giai cấp – Hiến pháp 1946; thực hiện công cuộc xóa nạn mù chữ; tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm để từng bước xóa nạn đói; tiến hành các hoạt động ngoại giao mềm dẻo, hòa hoãn với kẻ thù, ngăn chặn và làm thất bại âm mưu “diệt Cộng, cầm Hồ”, thôn tính đất nước của quân Tưởng và Pháp (hòa với Tưởng để tập trung đánh Pháp; hòa với Pháp để đuổi quân Tưởng về nước)…

Trong điều kiện vừa giành được độc lập, phải đối diện với nhiều khó khăn thách thức, những quyết sách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng (đã rút vào hoạt động bí mật từ tháng 11/1945) và Chính phủ không chỉ mang lại cho người dân Việt Nam những lợi ích thiết thực của độc lập, tự do, mà còn góp phần củng cố, nhân nguồn sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc. Vì thế, không có việc chế độ dân chủ cộng hòa ở Việt Nam khi đó là “phi dân chủ”, là thực hiện chuyên chính vô sản nên “đã tàn sát” những người yêu nước trong các đảng phái khác, “gây đổ vỡ lớn trong dân tộc” như sự bịa đặt của Tâp hợp dân chủ đa nguyên. Thực tế, những công việc mà chính quyền cách mạng triển khai đều không ngoài thực thi nhiệm vụ bảo vệ chế độ, bảo vệ cuộc sống yên bình của người dân cả nước. Nếu Việt Nam thực sự “phi dân chủ”, thì chắc chắn không thể có cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I theo nguyên tắc bình đẳng, phổ thông đầu phiếu và bỏ phiếu kín. Hơn nữa, nếu không có dân chủ, nếu Đảng thực sự “độc tài và chuyên quyền” như các thế lực thù địch vu khống, thì cũng không thể có khối đại đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng, củng cố trên nền tảng liên minh công nhân – nông dân – trí thức cùng các tầng lớp lao động khác trở thành động lực chủ yếu của cách mạng được tập hợp trong các hình thức Mặt trận từ năm 1930 đến nay (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) được.

Có một sự thật cũng cần phải khẳng định rằng, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975) của nhân dân Việt Nam chắc chắn không phải là “cuộc nội chiến Bắc – Nam” và cuộc trường chinh kháng chiến đó cũng không phải là sự áp đặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng như các luận điệu phản động, xuyên tạc tung lên mạng xã hội. Mà chỉ có một sự thật- đó là một cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam cho lý tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, cho khát vọng “thống nhất nước nhà là con đường sống của nhân dân ta”, cho niềm tin tưởng “Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam” và “đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”(5)… dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Việc quy chụp cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là “nội chiến” chính là một trong những chiêu trò đổi trắng thay đen của các nhà “rân chủ”, ngáo “dân chủ tư sản”. Luận điệu xuyên tạc này không phải là sự thật, mà sự thật là nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Vì thế, sau 21 năm kiên cường kháng chiến đầy hy sinh, gian khổ, miền Nam đã được giải phóng, cả nước đã thống nhất vào mùa Xuân năm 1975. Như vậy là, nhân dân Việt Nam yêu nước đã đồng tâm, hợp lực và đoàn kết để chiến đấu cho độc lập, tự do của dân tộc mình; cho phẩm giá làm người của chính mình như mình lựa chọn, chứ không phải là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam “sai lầm từ đầu”, “mê muội rập khuôn theo Liên Xô”, “đi theo Liên Xô vào lúc mà đế quốc này sắp sụp đổ”, đã “áp đặt cuộc nội chiến” như sự quy chụp và vu khống của các thế lực thù địch.

SỰ THẬT LÀ MINH CHỨNG SINH ĐỘNG NHẤT

Có thể khẳng định rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc; tiến hành thắng lợi các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ, cứu nước (1945-1975). Ước mơ về một đất nước Việt Nam hòa bình, độc lập, tự do, “non sông liền một dải” cùng đi lên chủ nghĩa xã hội đã trở thành hiện thực. Những hồi ức “ngày Bắc đêm Nam”, “kẻ Bắc người Nam” khi đất nước bị chia đôi đã trở thành quá khứ. Đi cùng đó, chế độ “Việt Nam cộng hòa” thân Mỹ cũng không còn hiện diện. Sự thật là, sau khi cả nước thống nhất, cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, thì hòa bình, độc lập, tự do và một đất nước Việt Nam khởi sắc, ngày một phát triển sau những năm dài chiến tranh tàn khốc đã mang lại cho mỗi người dân trên mọi miền của Tổ quốc một đời sống vật chất và tinh thần ngày càng tốt hơn; năm sau tốt hơn năm trước. Đặc biệt, sau hơn 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, những thành tựu đạt được của đất nước về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại; kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, được nhân dân ghi nhận, tin tưởng và kỳ vọng chính là minh chứng sinh động nhất khẳng định ý nghĩa, giá trị của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Đồng thời, cũng chứng minh lời Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác – Lênin, đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười, liên minh chặt chẽ với các nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân Việt Nam tin tưởng vững chắc vào thắng lợi của mình, quyết tâm đi tới một tương lai hạnh phúc tươi đẹp, đi tới xã hội xã hội chủ nghĩa”(6) là hoàn toàn đúng đắn!

Cùng với đó, cũng cần phải khẳng định rằng, với thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc “đem người nô lệ thành người tự do” vào mùa Thu năm 1945 cách đây 77 năm, dưới sự lãnh đạo của một Đảng cách mạng, nhân dân Việt Nam đã khẳng định được nguồn sức mạnh vô song của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân; đồng thời, cổ vũ các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc khác vùng lên đấu tranh để tự giải phóng mình, mở đầu cho những thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước châu Á, châu Phi và châu Mỹ la tinh sau đó. Đặc biệt, một sự thật cũng không thể phủ nhận nữa là, với thắng lợi của cách mạng Việt Nam trên hành trình đấu tranh cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội hơn 92 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong quá trình xây dựng và phát triển; không chỉ vững vàng, bản lĩnh, kiên định trước những biến động của tình hình quốc tế, khu vực, trong nước, mà còn và luôn xứng đáng là Đảng cầm quyền, độc quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam – lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị, xây dựng và bảo vệ, phát triển đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội như Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa năm 2013 đã hiến định.

Trân trọng Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và Cách mạng Tháng Tám năm 1945 – những cuộc cách mạng không chỉ ghi dấu mốc trong lịch sử của mỗi dân tộc mà còn là một mốc son trong lịch sử thế giới đương đại là không thể cãi bàn. Bởi rằng, trân trọng những hy sinh và cả những thành tựu của quá khứ cũng chính là trân trọng nguồn sức mạnh nội lực của chính mình, dân tộc mình trên hành trình hướng đến tương lai tươi sáng. Nên là, những luận điệu phản động cho rằng Cách mạng Tháng Mười Nga “đã sụp đổ tại chính quê hương của nó”, đã “chứng tỏ sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là sai lầm, ảo tưởng” và Việt Nam đi theo “vết xe đổ đó là sai lầm” thật thiển cận. Không phải Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ là chủ nghĩa Mác – Lênin đã “hết thời”, mà đó chỉ là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực vì những lý do chủ quan và khách quan của nó. Đồng thời, cũng không phải vì những khó khăn, thách thức đang tiếp tục phải đối diện trên hành trình đi lên chủ nghĩa xã hội mà có thể quy chụp rằng Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là đưa đất nước đến nghèo đói, đưa đất nước “đi vào ngõ cụt”.

Một Việt Nam “chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” là minh chứng khách quan sinh động nhất, bác bỏ mọi sự xuyên tạc! Vì thế, dù nhân danh ai và tổ chức nào, thì khách quan cũng không thể xuyên tạc, bẻ cong được giá trị thời đại, có tính định hướng lớn của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 cũng như sự lựa chọn con đường cứu nước duy nhất đúng, phù hợp xu thế thời đại, phù hợp điều kiện, vị thế địa chính trị Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thực tế, việc lựa chọn con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, quyết tâm xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam là sự thật và sự thật đó cho thấy các nhà “rân chủ” vừa hay xuyên tạc vừa hay mơ hão! Chắc chắn, ở Việt Nam không cần đa nguyên, đa đảng đối lập; không đi theo con đường tư bản chủ nghĩa và thực thi nền dân chủ tư sản, nên giấc mơ “Việt Nam dân chủ, tự do tư sản” của các nhà “rân chủ” chỉ còn là ảo vọng!

NGUỒN: TS. VĂN THỊ THANH MAI