Friday, 19th April, 2024 9:44

TỰ DO BÁO CHÍ PHẢI TRONG KHUÔN KHỔ PHÁP LUẬT

Không chỉ có Việt Nam mà rất nhiều nhà nước trên thế giới đều có quy định trong Hiến pháp: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Vì thế, việc các cơ quan chức năng của Việt Nam xét xử một số nhà báo, hoặc những người đã từng làm báo vi phạm pháp luật là điều bình thường. Nhà báo cũng là công dân, bình đẳng như mọi công dân khác.

Thế nhưng, gần đây, khi tòa án của Việt Nam xét xử một số phần tử lợi dụng “mác phóng viên” để ra kích động xuyên tạc, tán phát những thông tin sai lệch… thì một số người đã có ý kiến trên mạng xã hội hoặc trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài cho rằng: “Việt Nam đã đàn áp nhà báo”, “Ở Việt Nam không có tự do báo chí”… Họ kêu gọi mọi người đấu tranh đòi “tự do báo chí đích thực”, “thả nhà báo tự do”…

Những người có hành vi đi ngược lại với lợi ích của đại đa số nhân dân Việt Nam có thể không biết, hoặc cố tình không biết rằng, tự do ngôn luận là quyền cơ bản của con người, nhưng luôn phải có giới hạn và phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật. Hầu hết các nước trên thế giới đều có các quy định như vậy. Mỗi quốc gia, tùy thuộc vào điều kiện và bối cảnh cụ thể mà đưa ra những giới hạn nhất định đối với việc thực hiện tự do ngôn luận của công dân. Ở Mỹ, giới hạn của tự do ngôn luận được thể hiện chủ yếu qua án lệ của các tòa án, đặc biệt là Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, cho phép chính quyền ngăn chặn và trừng phạt các phát ngôn có tính chất khiêu dâm, tục tĩu, phỉ báng, xúc phạm, gây hấn…

Ở Pháp, pháp luật về tự do ngôn luận đưa ra các giới hạn, chế tài nghiêm khắc trừng trị hành vi lạm dụng quyền tự do ngôn luận làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, bao gồm việc bảo vệ nhân phẩm con người, chống lại việc vu khống, bôi nhọ; chống phân biệt chủng tộc, tôn giáo; chống kích động bạo lực, gây hận thù (Luật Tự do báo chí năm 1881); chống lại việc xâm phạm đời tư (Bộ luật Dân sự); cấm xuất bản một số tài liệu liên quan đến an ninh quốc gia (Luật Hình sự). Việc bày tỏ quan điểm cá nhân trên mạng Internet cũng chịu sự điều chỉnh của Luật Tự do báo chí…

Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận của công dân. Tự do ngôn luận được xem là quyền hiến định ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (năm 1946): “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài” (Điều 10). Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện hành (năm 2013) tiếp tục khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” (Điều 25). Như vậy, về mặt pháp luật, Đảng, Nhà nước đã ban hành khung pháp lý về quyền tự do ngôn luận đầy đủ, đồng bộ, tương thích với luật pháp quốc tế về quyền con người.

Theo Hiến pháp “quyền tự do ngôn luận” của mọi công dân là quyền được tự do có quan điểm và giữ vững quan điểm của mình, cũng như được tự do tìm kiếm và tiếp nhận, chia sẻ thông tin nhưng phải nằm trong giới hạn mà pháp luật quy định, phù hợp với các giá trị đạo đức, văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, không phải tùy tiện, vu khống, bôi nhọ, lừa bịp, xâm hại đến an ninh quốc gia, trật tự xã hội, quyền tự do của người khác. Cá nhân, tổ chức phải chịu trách nhiệm về các hành vi, ứng xử trên mạng xã hội; phối hợp với các cơ quan chức năng để xử lý hành vi, nội dung thông tin vi phạm pháp luật.

Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 và Luật An ninh mạng năm 2018 đều quy định rõ những hành vi đăng tải, phát tán thông tin sai lệch, xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền; bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc; thông tin sai sự thật, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân… đều bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

Vì vậy, không thể nói những người bị xử lý vi phạm “không biết bị tội gì?”. Pháp luật của Việt Nam “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”. Thực tế cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam đã và đang diễn ra đúng như thế. Vì thế, những kẻ “tát nước theo mưa”, “theo đóm ăn tàn”, mờ mắt theo chân bè lũ khủng bố, chống phá, đi ngược lại lợi ích của quốc gia, dân tộc thì chắc chắn sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật hiện hành, trả giá đắt cho những hành vi làm nhục người khác; lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân hay cao hơn nữa là tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Mỗi người dân cần nhận thức đúng đắn về quyền tự do ngôn luận, từ đó nêu cao ý thức, trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội, đề cao cảnh giác, chủ động đấu tranh, phản bác, ngăn chặn các luận điệu sai trái, thông tin xấu, độc và tích cực chia sẻ, lan tỏa các thông tin lành mạnh.

NGUỒN: ANH MINH