Thursday, 21st November, 2024 19:28

VẤN ĐỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI

Tư tưởng nữ quyền là một sản phẩm của tư tưởng dân chủ. Ở Việt Nam, tư tưởng nữ quyền đã xuất hiện trong điều kiện nào và đã được nhận thức ra sao?

Qua báo chí và các xuất bản phẩm bằng tiếng Việt đầu thế kỷ 20, báo cáo của chúng tôi muốn làm rõ những điều kiện lịch sử của việc xuất hiện tư tưởng nữ quyền ở Việt Nam và sự phát triển của quá trình nhận thức tư tưởng này trong xã hội Việt Nam cũng như của chính bản thân phụ nữ Việt Nam đầu thế kỷ 20.

1. Vấn đề phụ nữ ở Việt Nam và những quan điểm đầu tiên về nữ quyền trong những năm trước Chiến tranh Thế giới I

Do những điều kiện tự nhiên và xã hội đặc biệt trong lịch sử, phụ nữ Việt Nam không chỉ có vai trò to lớn trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước mà còn có vai trò quan trọng trong gia đình, nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Tuy nhiên, dưới chế độ phong kiến, ảnh hưởng của Nho giáo đã tạo nên vị trí ” hai mặt” của phụ nữ trong đời sống gia đình và xã hội. Tính chất ” hai mặt” này thể hiện ở chỗ: một mặt là quyền uy mạnh mẽ trên lý thuyết của người chồng đối với vợ; mặt khác là địa vị tương đối bình đẳng trên thực tế giữa vợ và chồng. Quyền uy trên lý thuyết của người chồng là kết quả của việc nhà nước chấp nhận và ủng hộ gia đình Nho giáo, còn địa vị bình đẳng trên thực tế của phụ nữ được quyết định bởi vai trò quan trọng và những đóng góp của họ trong kinh tế gia đình và xã hội. Chính vị trí ” hai mặt” này đã làm cho phụ nữ trở thành một vấn đề xã hội trong lịch sử và ảnh hưởng tới việc nhận thức tư tưởng nữ quyền trong những năm đầu thế kỷ 20.

Trước khi trở thành thuộc địa của Pháp, Việt Nam là một nước phong kiến nông nghiệp tiểu nông tự cấp, và tự túc, phần lớn nhân dân không biết đọc, biết viết, báo chí chưa ra đời, vấn đề phụ nữ biểu hiện tập trung trong các hình thức văn hóa, nghệ thuật và tín ngưỡng dân gian. Nội dung của vấn đề phụ nữ là đề cao vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội, đồng thời phẩn ánh địa vị thấp kém của phụ nữ cũng như khát vọng bình đẳng và tinh thần phản kháng của phụ nữ Việt Nam.

Đầu thế kỷ 20, dưới tác động của các chương trình khai thác thuộc địa, chính sách văn hóa giáo dục của Pháp, ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng trên thế giới, Việt Nam có sự thay đổi trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa giáo dục… Khi xã hội thay đổi, tất cả đều ảnh hưởng tới phụ nữ. Cùng với sự ra đời của giai cấp công nhân là bộ phận nữ lao động làm thuê có mặt ở hầu hết các ngành kinh tế. Họ làm việc trong các hầm mỏ, xưởng máy, đồn điền… Số đông phụ nữ còn được đưa vào làm công việc dịch vụ trong các đô thị, làm người bán hàng, đi ở, làm con sen, bồi bếp và thậm chí cả nghề mãi dâm… Bên cạnh đó chính sách văn hóa giáo dục của Pháp cũng tạo nên một tầng lớp phụ nữ trí thức, làm thư ký, làm giáo viên, nhà thơ, nhà báo… phụ nữ trở thành một lực lượng xã hội, một đối tượng quan tâm, tranh thủ của mọi khuynh hướng chính trị.

Từ rất sớm báo chí đã đề cập tới vấn đề phụ nữ. Ngay từ năm 1907, trên Đăng Cổ tùng báo, một tờ báo tiếng Việt hiếm hoi lúc bấy giờ đã xuất hiện mục “ Nhời đàn bà” như một diễn đàn của phụ nữ. Ra đời trong bối cảnh của phong trào Duy tân và Đông Kinh nghĩa thục, những vấn đề phụ nữ trên Đăng cổ tùng báo do đó chủ yếu nhằm phê phán hủ tục trong tang ma, cưới xin.. tục đa thê và những quan niệm không đúng về việc phụ nữ đi học.

Năm 1913, trên Đông Dương tạp chí, mục Nhời đàn bà lại xuất hiện. Lần này, trong xu hướng “dung hòa văn hóa Đông Tây”, những vấn đề phụ nữ được mở rộng hơn, không chỉ nhằm phê phán phong tục, tập quán cũ mà còn bao hàm cả việc truyền bá khoa học và văn minh phương Tây.

Nhìn chung, mục Nhời Đàn bà trên Đăng cổ tùng báo và Đông Dương tạp chí chủ yếu đều do Nguyễn Văn Vĩnh viết dưới tên phụ nữ Đào Thị Loan. Nguyễn Văn Vĩnh là người Tây học, chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa phương Tây, vì vậy, những vấn đề phụ nữ mà ông nêu ra phản ánh những thay đổi do điều kiện kinh tế xã hội mang lại, cũng như báo động về một lối sống mới, lối sống thị dân tư sản mới bắt đầu biểu hiện qua sinh hoạt của phụ nữ đô thị. Việc nhìn nhận vai trò và vị trí của phụ nữ tuy có tiến bộ khi đánh giá vai trò của phụ nữ trong gia đình, nhưng cũng chỉ dừng lại ở đó. Sự bình đẳng nam nữ chỉ được hiểu là sự bình đẳng trong vấn đề giáo dục để phụ nữ làm tròn bổn phận của mình đối với gia đình. Những quan niệm về vị trí của phụ nữ vẫn là những quan niệm của lễ giáo phong kiến nhằm ràng buộc phụ nữ vào gia đình, chồng con như quan niệm người phụ nữ phải:” coi mình như một vật mọn trong cuộc đời người đàn ông” lấy việc hi sinh cho chồng con ” làm đạo sung sướng của đàn bà”, dùng tài đức của mình để đảm đang” việc nhà, giúp chồng con gây dựng việc lớn lao”.

Vấn đề nữ quyền bắt đầu được đề cập trên Đông Dương tạp chí trong bàiVề thói trọng nam khinh nữ của ta năm 1914 và bài Sự giáo dục đàn bà con gái của Phạm Quỳnh năm 1916. Cả hai bài đều đánh giá cao vai trò của phụ nữ trong gia đình, nhưng cho rằng phụ nữ vốn bị đánh giá thấp suy cho cùng chỉ vì không có học thức mà thôi” và quyền bình đẳng nam nữa được hiểu là” phải lưu tâm đến việc giáo dục đàn bà”. Cuộc đấu tranh đòi nữ quyền là cuộc đấu tranh” sao cho nữ quyền chúng ta ngày càng nhớn và làm thiên hạ kinh hồn bạt vía chẳng dám khinh chi đến lũ má hồng quần lĩnh chúng ta”.

2. Vấn đề nữ quyền và sự ra đời của tờ báo phụ nữ đầu tiên trong lịch sử báo chí Việt Nam- báo Nữ giới chung năm 1918

Ngay từ năm 1914, giới báo chí Việt Nam đã đề xuất việc ra một tờ báo dành riêng cho phụ nữ. Mặc dù được nhiều người ủng hộ, nhưng phải đến năm 1918, tờ báo dành riêng cho phụ nữ đầu tiên mới ra đời. Đó là báo Nữ giới chung xuất bản số đầu tiên ngày 1/2/1918 tại Sài Gòn do bà Sương Nguyệt Anh làm chủ bút. Bà Sương Nguyệt Anh là con gái thứ năm của nhà thơ yêu nước Nam Bộ Nguyễn Đình Chiểu.

Mặc dù mục đích của tờ báo được nêu trong phần mở đầu báo là “khởi xướng phong trào nữ học, nó không dám dính líu đến chính trị và không có ý tranh đua với nam giới”, nhưng bằng một loạt bài Nghĩa nam nữ bình quyền là gì(6) của Sương Nguyệt Anh, Bàn thêm về chữ nữ quyền của cô Bích Đào hay Nữ quyền tự do luận của cô Liễu, vấn đề nữ quyền và quyền bình đẳng nam nữ đã được đề cập đến một cách trực tiếp với nội dung cụ thể: Nữ quyền là gì? và thế nào là quyền bình đẳng nam nữ?

Khái niệm nữ quyền hay quyền bình đẳng nam nữ đựơc hầu hết các tác giả của Nữ giới chung cho rằng có nguồn gốc từ phương tây và do ảnh hưởng của các sách Tân thư của các nhà cải cách Trung Quốc. Tuy nhiên cũng có ý kiến xuất phát từ vai trò của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử cũng như địa vị tương đối được tôn trọng của họ trong gia đình nên cho rằng nữ quyền đã có mầm mống từ trong lịch sử Việt Nam. Nhưng rõ ràng sự tôn trọng có tính chất tập quán này hoàn toàn không phải là sự bình đẳng về chính trị và bình đẳng trước pháp luật mà người phương Tây chủ trương. Do đó các tác giả của Nữ giới chung trở nên mâu thuẫn và khó hiểu trong khi một mặt họ hưởng ứng quan niệm phương Tây về sự bình đẳng và giáo dục cho phụ nữ, mặt khác lại né tránh ý nghĩa chính trị của khái niệm này và vẫn bám chặt lấy quan niệm Nho giáo về trật tự đẳng cấp trong xã hội.

Theo bà Sương Nguyệt Anh, quyền bình đẳng nam nữ có nghĩa là “phụ nữ có cùng lợi ích như nam giới”, phụ nữ cũng thông minh như nam giới, nhưng sự bình đẳng về trí thức khác sự giống nhau về vai trò và đối với phụ nữ “việc trông coi nhà cửa, giúp đỡ chồng, dạy dỗ con cái là lẽ tự nhiên.”

Nữ quyền đối với phần đông người Việt Nam thời kỳ này dù sao cũng vẫn là một khái niệm xa lạ và mới mẻ. Các tác giả của Nữ giới chung đã cố gắng làm rõ khái niệm này, nhưng dường như không mấy kết quả do quá trình hấp thụ và diễn dịch khái niệm từ tiếng nước ngoài, nhất là nó lại được hiểu theo nhiều cách khác nhau tùy theo vị trí của người dịch trong bậc thang xã hội.

Mặc dù vậy, có thể nói đây là lần đầu tiên trên báo chí Việt Nam, vấn đề nữ quyền được đưa ra thảo luận một cách trực tiếp, cũng như vai trò của bà Sương Nguyệt Anh với tư cách là chủ bút, vấn đề nữ quyền trên Nữ giới chung đã thực sự do chính phụ nữ nhận thức và lên tiếng.

3. Sự phát triển của quá trình nhận thức vấn đề nữ quyền trong những năm sau Chiến tranh Thế giới I

Sau Chiến tranh Thế giới I, phong trào nữ quyền của phụ nữ châu Âu phát triển mạnh mẽ. Ảnh hưởng của phong trào này qua báo chí cũng tác động tới xã hội Việt Nam. Bên cạnh đó, Quy chế về giáo dục Đông Dương ban hành năm 1917 đã làm cho dư luận xã hội Việt Nam đầu những năm 1920 sôi nổi bàn về nữ học, nữ quyền. Các quan chức giáo dục của chính quyền thực dân như Tôn Thất Đàm, Trịnh Thu Tâm, Nguyễn Đình Tỵ, Trần Thúc Cáp, Vũ Ngọc Liên… và các học giả tên tuổi như Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Học, Phạm Ngọc Thiều… kể cả phụ nữ như bà Đạm Phương đều viết báo hoặc diễn thuyết về vấn đề này.

Mặc dù đánh giá cao vai trò của phụ nữ trong lịch sử, các tác giả này cũng phải thừa nhận phụ nữ Việt Nam vẫn phải chịu một địa vị thấp kém, bị coi là “vị thành niên”, “chung thân là vị thành niên”. Sự bất bình đẳng này là sự bất bình đẳng trong vấn đề giáo dục mà nguyên nhân của nó chỉ đơn giản là vì “nước ta từ xưa câu nệ về mấy câu sáo ngữ sách Tầu, nói đàn bà chẳng khôn khéo gì… là giống phụ thuộc đàn ông”, hoặc “vì tin vào thuyết âm dương, đàn bà là nhu phải thuận cương, phải tam tòng nên không chú ý đến dạy dỗ”. Do đó, giáo dục phụ nữ được coi là biện pháp để thực hiện bình đẳng nam nữ. Vì quan niệm vị trí của phụ nữ là ở trong gia đình nên nội dung giáo dục cũng chủ yếu nhằm giúp phụ nữ làm tốt việc nội trợ, “con gái phải học để nhân cách hoàn toàn”  để “hiểu được tam tòng, tứ đức”. Quyền “bình đẳng về chính trị” bị coi là ” một ảo tưởng” và ” bình đẳng tự do là quyền của đàn ông, đàn bà dùng không có lợi”.

Đến những năm 1930, tình hình xã hội, tư tưởng Việt Nam có những thay đổi quan trọng. Chính sách Khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp sau chiến tranh đã làm cho nền kinh tế Việt Nam ngày càng đi sâu vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời, giai cấp tiểu tư sản thành thị ngày một đông đảo. Đặc biệt chính sách chính trị của Pháp nhằm xây dựng một tầng lớp thượng lưu mới làm chỗ dựa cho Pháp đã làm xuất hiện khuynh hướng chính trị quốc gia cải lương. Bên cạnh đó các phong trào đấu tranh sôi nổi của các lực lượng xã hội phát triển ngày một phong phú, cũng như sự khẳng định quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam với khuynh hướng chính trị dân tộc xã hội chủ nghĩa đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới các tầng lớp nhân dân.

Về mặt văn hóa tư tưởng, chính sách văn hóa giáo dục của Pháp, cụ thể là Học chính Tổng quy ban hành năm 1917 trải qua hơn 10 năm thực hiện đã đưa lại kết quả: khoảng 35 vạn trí thức Tây học mà chế độ giáo dục lấy tiếng Pháp làm ngôn ngữ giảng dạy chính trong nhà trường đã làm cho ảnh hưởng của văn hóa Pháp trở nên sâu sắc hơn. Hoài Thanh – Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam đã viết:” Phương Tây bây giờ đã đi tới chỗ sâu nhất trong hồn ta. Ta không còn có thể vui cái vui ngày trước, buồn cái buồn ngày trước, yêu ghét giận hờn nhất nhất như ngày trước.” Đó chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự phát triển của phong trào nữ quyền, giải phóng phụ nữ, phong trào Âu hóa cũng như phong trào Thơ mới và tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn trong những năm 1930.

Đặc biệt vấn đề nữ quyền, giải phóng phụ nữ, phụ nữ tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc như thế nào trở thành vấn đề lưu tâm của xã hội. Hàng loạt tờ báo phụ nữ được xuất bản ở khắp 3 kỳ như Phụ nữ Thời đàm ( 1930-1934) ở Hà Nội, Phụ nữ Tân tiến ( 1932-1934) ở Huế, Phụ nữ tân văn (1929-1935) ở Sài Gòn. Bên cạnh đó là sự xuất hiện các sách chuyên khảo về phụ nữ như Nam nữ bình quyền của Đặng Văn Bẩy ở Sài Gòn năm 1928,Vấn đề phụ nữ của Phan Bội Châu năm 1929, Nam quốc nữ lưu, Nữ lưu văn học sử của Sở Cuồng- Lê Dư năm 1929… Tại các Hội chợ Đêm ở Sài Gòn, ở Huế, trên các diễn đàn công khai từ Nam ra Bắc, những phụ nữ trí thức như các cô Nguyễn Thị Kiêm, Phan Thị Nga… đã đứng ra diễn thuyết về các vấn đề: “Có nên tự do kết hôn hay không?” , ” Chế độ đa thê”, ” Một ngày của một người phụ nữ tân tiến, ” Phụ nữ với thể dục”, ” Phụ nữ giải phóng”… các tổ chức phụ nữ như Phụ nữ giải phóng, Hội nữ quyền, Nữ công học hội được tổ chức ở nhiều nơi với các cấp độ khác nhau của mục tiêu vận động phụ nữ. Nữ quyền và giải phóng phụ nữ trở thành những những khẩu hiệu gây ấn tượng đến mức bị lạm dụng trong cả việc quảng cáo thuốc. Ví dụ trên báo Phụ nữ tân văn nhà thuốc Đầu rồng đã đăng quảng cáo:” chị em phụ nữ đừng lo rồi đây không được giải phóng, đã có thuốc tốt trị các bệnh… giúp cho chị em mạnh khỏe để lo vấn đề giải phóng”.

Thời kì này nội dung của khái niệm nữ quyền và giải phóng phụ nữ không còn giới hạn trong quan niệm coi sự bất bình đẳng nam nữ chỉ là sự bất bình đẳng trong vấn đề giáo dục nữa mà được bao gồm cả quyền bình đẳng về chính trị, quyền bầu cử, ứng cử, quyền lao động và tự do kết hôn với người mình yêu.

Nhìn chung, việc nhận thức vấn đề nữ quyền trong những năm 1930, một mặt chịu ảnh hưởng bởi vị trí ” hai mặt” của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử, mặt khác phản ánh quan điểm và quyền lợi giai cấp của các nhóm xã hội khác nhau và đã hình thành một số khuynh hướng.

Trước hết, đó là khuynh hướng ủng hộ nữ quyền. Những người ủng hộ nữ quyền như Nguyễn Văn Bá, Huỳnh Thúc Kháng, Cao Văn Chánh, Trịnh Đình Rư… cho rằng” Quyền bình đẳng nam nữ là một tư tưởng tiến bộ, là ” hợp với nhân đạo và công lý”. Nhưng nữ quyền gắn với quyền chính trị, quyền bầu cử, ứng cử của phụ nữ thì hầu hết họ đều né tránh mà chỉ nhấn mạnh vị trí của phụ nữ không chỉ trong gia đình mà phụ nữ cần tham gia các công tác xã hội. Hầu hết những người này đều thuộc tầng lớp trên, do đó chỉ nhận thấy thân phận phụ thuộc của một số phụ nữ trong các gia đình tầng lớp trên, luôn sống trong điều kiện kín cổng cao tường , không lao động, không sống tự lập và chịu nhiều ảnh hưởng của lễ giáo phong kiến. Vì vậy họ chủ trương giáo dục phụ nữ và phụ nữ chức nghiệp là điều kiện để thực hiện nữ quyền và giải phóng phụ nữ. Trên báo Phụ nữ Tân văn vì thế xuất hiện nhiều bài viết về vấn đề nghề nghiệp cho phụ nữ như : “ chị em ta nên học những nghề để mưu tự lập thân”, ” nghĩa vụ của chị em ta là phảo lo cho có nghề nghiệp”…

Khuynh hướng này được sự ủng hộ của nhiều phụ nữ trí thức, phụ nữ tư sản và tiểu tư sản như Vân Đài, Đạm Phương, bà Nguyễn Đức Nhuận, Nguyễn Thị Kiêm…

Trái với khuynh hướng ủng hộ nữ quyền là khuynh hướng phê bình nữ quyền. Phê bình nữ quyền không chỉ là quan điểm của những người chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo như Phạm Quỳnh, Tôn Thất Đàm, mà ngay cả những trí thức Tây học tư sản như Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long,… mặc dù biết quyền bình đẳng nam nữ là một tư tưởng tiến bộ, nhưng vì quyền lợi chính trị cá nhân họ cũng phản đối nữ quyền. Nguyễn Phan Long cho rằng “không cần giải phóng phụ nữ vì họ đâu có phải là nô lệ”. Riêng Nguyễn Văn Vĩnh xuất phát từ địa vị tương đối bình đẳng trên thực tế của phần lớn phụ nữ bình dân trong gia đình cũng như thân phận khá tự do của họ (tự do đi lại, buôn bán, lao động…) thì nói phụ nữ Việt Nam đòi nữ quyền như phụ nữ Châu Âu là đòi ngược. Hoặc nói thẳng ra như Bùi Quang Chiêu là “giúp phụ nữ đòi bình quyền là gây thêm kẻ phản đối” và “họ sẽ phản đối ta từ trong gia đình tới ngoài xã hội” vì vậy “không nên giúp họ trở thành kẻ phản đối ta”.

Phản đối nữ quyền họ còn phản đối cả việc phụ nữ đi làm và tham gia công tác xã hội. Bà Phan Văn Gia cho rằng: phụ nữ đi làm dù thế nào cũng có hại “vì sẽ làm nạn thất nghiệp tăng lên do tranh chỗ làm của đàn ông hay sẽ làm cho gia đình bị bỏ phế vì không có người chăm sóc… gia đình là gốc của xã hội mà gia đình không vững thì xã hội sẽ tan…” Đây cũng là quan niệm của Ngô thúc Đích và Tôn Thất Đàn…

Ngoài hai khuynh hướng trên còn có một khuynh hướng khác nhận thức được thân phận nô lệ của người Việt Nam dưới thời Pháp thuộc nên chủ trương quay sang vận động giải phóng phụ nữ khỏi ràng buộc của lễ giáo phong kiến, ví dụ như Diệp Văn Kỳ cho rằng: “ người Việt Nam không phải là kẻ làm luật mà chỉ là kẻ chịu luật”, “ngay nam giới cũng chỉ có quyền nằm canh đóng thuế” thì” đối với phụ nữ chỉ chỉ còn chuyện giải phóng, giải phóng ở phong tục, giải phóng ở gia đình, giải phóng ở xã hội và hoàn toàn giải phóng”. Hay như Phan Khôi vì ” mình không có quyền chính trị và quyền giáo dục trong tay thì có ý kiến chi cũng là vô dụng cả” nên ông tập trung “chỉ trích Khổng giáo, đả phá cái chế độ đại gia đình”, vì chị em phụ nữ mà “xóa cái luật nam tôn, nữ ty, giảng lại cái nghĩa chữ trinh, bênh vực sự cải giá là vô tội” qua một loạt bài trên báo Phụ nữ tân văn, báo Thần Chung và báo Trung lập…

Trong khi đó nhóm các nhà văn, nhà báo tự do như Nhất Linh, Khái Hưng, Tú Mỡ, Thạch Lam…cho ra đời Tự lực văn đoàn với một loạt tiểu thuyết luận đề đề cao con người cá nhân, chống lại lễ giáo phong kiến. Đặc biệt các nhân vật nữ của họ là những người khao khát thoát khỏi những ràng buộc của lễ giáo phong kiến khao khát hạnh phúc, muốn được tự định đoạt cuộc sống của mình như Nhung trong Lạnh lùng, Loan trong Đôi bạn,Trâm trong Nắng thu…

Dưới danh nghĩa đòi nữ quyền, giải phóng phụ nữ, một số phụ nữ thành thị sa vào cờ bạc, bói toán, hầu đồng…. Đặc biệt các cô gái Tây học ( theo mới) mà lối sống và quan niệm của họ là một thách thức đối với những quan niệm đạo đức và đe dọa tính bền vững của gia đình truyền thống. Do đó, một số người như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Bội Châu mặc dù ủng hộ nữ quyền đã phải lên tiếng phê phán: “ vứt hết kim tiền máu mủ vì phấn sáp , nước bông… mang được lốt Madam thời xem đất nước quê hương không bằng một sợi tóc, thê mà nay nữ quyền, mai nữ quyền, kêu rêu, xao xác, phụ nữ như thế còn vấn đề gì mà nói nữa đâu“.

Đầu những năm 1930, trong khi trên sách báo công khai, những trí thức tư sản, ngay cả những người ủng hộ nữ quyền và giải phóng phụ nữ cũng đều tách vấn đề phụ nữ ra khỏi vấn đề xã hội, cũng như né tránh ý nghĩa chính trị của khái niệm này và không ai chỉ ra được trong điều kiện của một nước thuộc địa như Việt Nam, phụ nữ muốn đòi nữ quyền, giải phóng phụ nữ, trước hết phải có một tiền đề là nước nhà độc lập, thì những người cộng sản là những người duy nhất đã gắn vấn đề giải phóng phụ nữ với giải phóng dân tộc. Trong Luận cương chính trị của Đảng cộng sản năm 1930 , nam nữ bình quyền là một trong mười chủ trương lớn của Đảng. và ngay tại Hội nghị trung ương lần thứ nhất của Đảng tháng 10 năm 1930, Đảng đã ra Nghị quyết về vận động phụ nữ và giải phóng dân tộc: “lực lượng phụ nữ là một lực lượng rất trọng yếu. nếu quảng đại quần chúng phụ nữ không tham gia cuộc đấu tranh cách mạng thì cách mạng không thể thắng lợi được”, cũng như nếu phụ nữ đứng ngoài cuộc đấu tranh cách mạng của công nông thì không bao giờ đạt mục đích phụ nữ giải phóng được”.

Cuộc vận động phụ nữ của Đảng cộng sản phát triển, nhiều nữ Đảng viên cộng sản đã đi vào vận động phụ nữ lao động công nông. Mặt khác, các nữ trí thức, các nhà báo nữ cộng sản đã làm cho vấn đề phụ nữ trên báo chí tư sản như Phụ nữ tân văn những năm 1934-1935 trở nên gần gũi hơn đối với phụ nữ lao động và việc nhận thức vấn đề nữ quyền trở nên thực tế hơn và đúng hướng hơn. Đó là vấn đề của phần đông phụ nữ đang lao động trong các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền của thực dân Pháp, vấn đề chế độ tiền lương, điều kiện làm việc, chế độ bảo hiểm và nhân phẩm phụ nữ… Trên báo Phụ nữ tân văn thời kỳ này còn xuất hiện nhiều bài báo có tính tranh đấu mạnh mẽ. Bên cạnh việc phê phán sự “giản đơn”, “hão huyền” phi thực tế của việc nhận thức vấn đề nữ quyền. bằng những dẫn chứng lấy từ báo chí về những vụ việc phụ nữ bị chồng đánh chết, tớ gái vì sợ ông chủ mà tự tử, các cô thiếu nữ tự tử vì bị cha mẹ ép duyên…các bài báo đã khẳng định: ” đàn bà khổ vì luật pháp, vì lễ giáo, chế độ làm việc lương ít, không được học tập, không được tổ chức, không được bảo hộ khi sinh nở và không có mảy may quyền gì trong sự tổ chức chính trị kinh tế, xã hội xứ này”. Do đó “phụ nữ cần tranh đấu. Tranh đấu chống ai? chống cái chế độ, chống tất cả cái điều kiện gây nên khổ thống và những ai cùng hưởng nhờ các điều kiện ấy”. Trong cuộc đấu tranh này, phụ nữ có thể đoàn kết cùng nam giới đấu tranh vì những mục tiêu chung. Như vậy cuộc đấu tranh của phụ nữ lúc này đã vượt ra khỏi phạm vi gia đình mà trở thành cuộc đấu tranh mang tính cách mạng xã hội.

Kết luận

1. Ở Việt Nam, vấn đề phụ nữ được quan tâm từ khá sớm, ngay từ những năm đầu thế kỷ 20, năm 1907 trên Đăng cổ tùng báo đã có mục Nhời đàn bà như một diễn đàn của phụ nữ và cho đến năm 1920 thì như nhận xét của nhà Việt Nam học người Úc David Marr: “ Phụ nữ và xã hội đã trở thành điểm tập trung chú ý mà các vấn đề khác thường xoay quanh nó. Hàng trăm cuốn sách, tập sách nhỏ và bài báo đã được xuất bản về mọi mặt. Phụ nữ trở nên có ý thức rằng họ là một nhóm người trong xã hội với các nỗi bất bình và yêu cầu riêng”. Điều này phản ánh vai trò quan trọng và những đóng góp to lớn của phụ nữ Việt Nam trong xã hội.

2. Vấn đề phụ nữ ở Việt Nam, trải qua quá trình nhận thức từ lĩnh vực văn hóa – nữ học, giáo dục phụ nữ, sang lĩnh vực chính trị xã hội- phụ nữ và quyền bầu cử, ứng cử, quyền tham chính, giải phóng phụ nữ… Đến những năm 1930, dưới ảnh hưởng của Đảng cộng sản Việt Nam, vấn đề nữ quyền được gắn với vấn đề dân tộc, vấn đề giai cấp.

3. Vấn đề phụ nữ không chỉ là vấn đề xã hội chung chung, mà đã nhanh chóng trở thành sự tự nhận thức của chính bản thân phụ nữ với sự xuất hiện rất sớm của tờ báo dành riêng cho phụ nữ, tờ Nữ giới chung năm 1918, cũng như sự phát triển của dòng báo phụ nữ trong những năm 1930 với sự tham gia của các nhà báo nữ như Sương Nguyệt Ánh, Đạm Phương, Nguyễn Thị Kiêm, Phạm Thị Nga, Vân Đài, Huỳnh Lan…

4. Sự tự nhận thức của phụ nữ đối với vấn đề nữ quyền cũng như sự phát triển của quá trình nhận thức tư tưởng này trong xã hội Việt Nam đã từng bước mang lại sự thay đổi thực sự cho phụ nữ cũng như sự phát triển của phong trào phụ nữ, thúc đẩy phụ nữ tham gia vào các hoạt động xã hội, vào phong trào đòi quyền bình đẳng nam nữ và giải phóng phụ nữ, giải phóng dân tộc và góp phần vào thành công của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam.

NGUỒN: PHÊ BÌNH VĂN HỌC